Nhịp sống bình yên dưới đáy biển chính là động lực mạnh mẽ thôi thúc Rolex cộng tác cùng nhà hải dương học nổi tiếng kiêm người sáng lập Mission Blue, Sylvia Earle, kiên trì nhiệm vụ gìn giữ nét nguyên sơ mà tạo hóa ban cho quần đảo Galápagos, một trong những Hope Spot quan trọng quyết định sự thành bại của công cuộc bảo vệ sức khỏe ‘lá phổi xanh’.
GALÁPAGOS – ‘ NGÔI NHÀ DẤU YÊU ’ DƯỚI ĐÁY BIỂN CỦA MUÔN LOÀI
G
alápagos, với chuỗi hệ sinh thái phong phú và độc đáo, là nơi sinh sống của đa dạng động – thực vật không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên Trái đất. Ngay lần đầu ghé thăm quần đảo vào năm 1966, Sylvia Earle – người trở thành Rolex Testimonee từ năm 1982 kiêm nhà hải dương học huyền thoại – đã vô cùng thích thú thốt lên đó là ‘nơi nhiều cá nhất’ mà bà từng đến. Tuy nhiên, điều làm Galápagos trở nên đặc biệt cũng đồng thời khiến nơi này dễ bị tổn thương hơn. Thực tế, khi nhiều người khám phá ra vùng biển đảo này cũng là lúc các loài ngoại lai xâm hại ồ ạt xuất hiện, bên cạnh áp lực đặt lên tài nguyên địa phương càng lớn dần.Thông qua Mission Blue do chính mình sáng lập năm 2009, nhà hải dương học hiện 87 tuổi vẫn miệt mài dành từng giây, phút tìm kiếm sự ủng hộ bảo tồn biển, tập trung vào Hope Spot, những khu vực có vai trò then chốt đối với sự “sống còn” của đại dương. Theo tổ chức phi lợi nhuận nhiệt thành này, các tiêu chí để định hình Hope Spot rất đa dạng; hoặc nơi đó là khu vực sinh sống của nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng vì hoạt động con người, hoặc có giá trị văn hóa quan trọng đối với nhân loại.
Galápagos trở thành một trong những Mission Blue Hope Spots đầu tiên của Earle vào năm 2010. Quần đảo với đa dạng sinh học phong phú này cho thấy thiệt hại mà con người gây ra cho đại dương có thể được đảo ngược như thế nào. Mặc dù Ecuador đã thành lập Khu bảo tồn biển Galápagos vào năm 1998 – một khu vực trải rộng trên diện tích 133.000 km2 vùng biển của quần đảo – thực tế vẫn cần nhiều hoạt động hơn nữa để đảm bảo Galápagos sẽ được cả cư dân, bao gồm người khai thác thủy hải sản, lẫn khách du lịch sử dụng bền vững trong nhiều năm tới.
KIÊN TRÌ TRONG SỨ MỆNH DÀI LÂU
“Nếu không thể bảo vệ quần đảo Galápagos, bạn còn có thể bảo vệ nơi nào trên hành tinh này?”, Sylvia Earle chia sẻ. Vừa qua, cuộc thám hiểm mang tính đột phá kéo dài hai tuần do bà dẫn đầu, đã bổ sung thêm bằng chứng ngày càng tăng về yêu cầu cấp thiết tăng cường bảo vệ biển. Mục tiêu nghiên cứu trên phạm vi rộng đã dẫn đến một đánh giá toàn diện về hệ sinh thái biển trong khu vực, xác định cả những thách thức lẫn cơ hội cho các nỗ lực bảo tồn trong tương lai.
Cuộc thám hiểm tập trung khám phá sự đa dạng bị ẩn giấu và lãng quên bên dưới những con sóng lặng lẽ vỗ vào bờ đá, qua đó cung cấp thông tin cơ bản, hữu ích về sức khỏe hệ sinh thái cho các cuộc khảo sát trong tương lai. Sử dụng công nghệ tiên tiến như DNA môi trường (eDNA) kết hợp hệ thống video dưới nước, nhóm đã phát hiện ra dữ liệu quan trọng về quần thể động vật ít được nghiên cứu như cá ngựa và tôm hùm bông đặc hữu. eDNA phân lập các dấu vết của DNA động vật bị bỏ lại trong cột nước. “Hầu hết các giải trình tự gen được tìm thấy đều không trùng khớp với bất kỳ dữ liệu nào hiện có, nghĩa là không có nhiều loài sinh vật tại Galápagos từng được giải trình tự, hoặc có những giống loài mới đối với giới khoa học mà chúng ta chưa xác định được”, Diana Pazmiño, thành viên Trung tâm Khoa học Galápagos, tiết lộ.
Đó không phải là khám phá đầu tiên! Năm 2019, Sylvia Earle và Salome Buglass đến từ Charles Darwin Foundation đã lên tàu lặn “DeepSee” để mở rộng hành trình khám phá độ sâu, phát hiện ra loài tảo bẹ mới nằm tận cùng dưới đáy. Hai nhà hải dương học hào hứng với cảnh quay về những ‘cánh rừng’ phong phú. Có giả thuyết cho rằng chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đa dạng sinh học của khu vực. “Rừng tảo bẹ có vai trò quan trọng trong hỗ trợ đa dạng sinh học, và có lẽ, chúng tôi đã tìm ra mảnh ghép hoàn hảo lý giải tại sao đa dạng sinh học cũng như sinh khối ở Galápagos lại phong phú đến mức đáng kinh ngạc”, Salome Buglass, bộc bạch.
Nhóm thám hiểm tiếp tục nghiên cứu dài hạn về hành trình xuyên đại dương, nắm bắt các vị trí di cư của cá mập từ nơi xa xôi như vịnh Mexico và bờ biển Costa Rica. Những phát hiện này là lý lẽ vững chắc cho sự hợp tác quốc tế trong nỗ lực mở rộng bảo vệ biển. Hăng say trong sứ mệnh bảo vệ ‘sức khỏe’ biển khơi, đội ngũ nhà nghiên cứu dẫn dắt bởi Earle cũng đã khảo sát môi trường sống của rùa, lập bản đồ khu vực kiếm ăn của bầy chim cánh cụt và đo lường mức độ ô nhiễm hạt vi nhựa. Loạt nghiên cứu thực địa như vậy hẳn giúp các nhà bảo tồn nhận ra sự kết nối không biên giới giữa các hệ sinh thái và sinh vật biển.
Sự kiện Ecuador, Panama, Colombia và Costa Rica công bố thành lập sáng kiến Hành lang biển nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương vào năm 2021, tạo ra đường ‘di cư an toàn’ cho cá mập, cá đuối, cá voi, rùa.
Cùng về đích đầu tiên trong hành trình di chuyển theo các loài sinh vật biển cần được bảo tồn đó tại Hope Spot Galápagos, Manuel Yepez và Alex Hearn từ Trung tâm Khoa học Galápagos, tha thiết mong các tổ chức có trách nhiệm mở rộng cũng như tăng cường hơn nữa số lượng tuyến ‘di cư an toàn’.
Ngót gần một thế kỷ sát cánh các nhà thám hiểm tiên phong, Rolex đã chuyển từ ủng hộ hoạt động khám phá sang bảo vệ, cam kết hỗ trợ nhiều cá nhân cùng tổ chức trong thời gian dài, sử dụng khoa học nhằm tìm kiếm giải pháp ‘hóa giải’ những thách thức môi trường ngày nay. Hứa hẹn đó càng được củng cố bằng việc ra mắt chiến dịch Perpetual Planet năm 2019, tập trung vào những cá nhân hoạt động tích cực vì một thế giới tốt đẹp hơn thông qua giải thưởng Rolex Awards for Enterprise, ngợi ca nỗ lực bảo vệ đại dương như một phần của liên minh được thiết lập cùng Mission Blue; bên cạnh nâng cao nhận thức sâu sắc thực trạng biến đổi khí hậu dựa trên quan hệ đối tác lâu dài với National Geographic Society. Kể từ đó, danh mục các mối quan hệ đối tác đã được mở rộng, với nhiều cá nhân và tổ chức cùng cam kết nỗ lực hơn nữa để bảo vệ hành tinh cho các thế hệ tương lai.